Thực ra, web 2.0 là khái niệm để chỉ những mã nguồn website có tính mở và tương tác cao, giúp người dùng có nhiều quyền hạn hơn và dễ tiếp cận hơn. Có thể nói web 2.0 là website cộng đồng.
Mục đích ban đầu khi tạo ra World Wide Web (năm 1990) của Tim Berners-Lee là nhằm tạo phương tiện cho phép người dùng tự do đưa thông tin lên Internet và dễ dàng chia sẻ với mọi người (trình duyệt web đầu tiên do Berners-Lee viết bao gồm cả công cụ soạn thảo trang web). Tuy nhiên, sau đó web đã phát triển theo hướng hơi khác với những gì mà ông kỳ vọng.
Điểm khác nhau cơ bản giữa web 1.0 và 2.0
Web 1.0 là thế hệ website cũ. Chủ yếu gồm các website dạng "đóng" hay vui vẻ gọi là "tự sướng" cũng được. Nơi người dùng thường chỉ có 2 nhiệm vụ chính là đọc ... và ấn nút "X" thoát khỏi trang web. Các web thể loại này thường thuộc về các công ty, tổ chức. Nhằm mục đích chính là giới thiệu đơn vị, hoặc tiếp cận người dùng. Nguồn tin trên các trang tin này là nguồn tin 1 chiều và bị kiểm soát tuyệt đối bởi quản trị viên.
Gần đây, nhiều nền tảng phát triển web mới như blog, wordpress hay wiki ngày càng được ưa chuộng. Nơi mọi thứ được chia sẻ nhiều hơn là "tuyên bố". Mọi người ai cũng có thể trở này nguồn cung cấp nội dung cho trang web của bạn. Các trang web dần mang tính chất xã hội hơn, thân thiện hơn. Và dần chúng được gọi là web 2.0.
Dougherty đã không hề đưa ra một định nghĩa cụ thể nào mà chỉ dùng các ví dụ so sánh phân biệt Web 1.0 và Web 2.0:
"DoubleClick là Web 1.0; Google AdSense là Web 2.0.
Ofoto là Web 1.0; Flickr là Web 2.0.
Britannica Online là Web 1.0; Wikipedia là Web 2.0. v.v...".
Sau đó Tim OReilly, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành OReilly Media, đã đúc kết lại 7 đặc tính của Web 2.0:
Thoạt đầu, Web 2.0 được chú trọng tới yếu tố công nghệ, nhấn mạnh tới vai trò nền tảng ứng dụng. Nhưng đến hội thảo Web 2.0 lần 2 tổ chức vào tháng 10/2005, Web 2.0 được nhấn mạnh đến tính chất sâu xa và bản chất hơn. Yếu tố cộng đồng.
Cung cấp nội dung
Bước phát triển đầu tiên và quan trọng nhất hướng đến Web 2.0 đó là cơ chế cung cấp nội dung, sử dụng các giao thức chuẩn hoá để cho phép người dùng sử dụng thông tin theo cách của mình (nghĩa là có khả năng tùy biến thông tin). Có nhiều giao thức được phát triển để cung cấp nội dung như RSS, RDF và Atom, tất cả đều dựa trên XML. Ngoài ra còn có các giao thức đặc biệt như FOAF và XFN dùng để mở rộng tính năng của website hay cho phép người dùng tương tác.
Dịch vụ web
Các giao thức truyền thông 2 chiều là một trong những thành phần then chốt của kiến trúc Web 2.0. Có hai loại giao thức chính là REST và SOAP. REST (Representation State Transfer) là dạng yêu cầu dịch vụ web mà máy khách truyền đi trạng thái của tất cả giao dịch; còn SOAP (Simple Object Access Protocol) thì phụ thuộc máy chủ trong việc duy trì thông tin trạng thái. Với cả hai loại, dịch vụ web đều được gọi qua API. Ngôn ngữ chung của dịch vụ web là XML, nhưng có thể có ngoại lệ.
Một ví dụ điển hình của giao thức truyền thông thế hệ mới là Object Properties Broadcasting Protocol do Chris Dockree phát triển. Giao thức này cho phép các đối tượng ảo (tồn tại trên web) tự biết chúng "là gì và có thể làm gì”, nhờ vậy có thể tự liên lạc với nhau khi cần.
Phần mềm máy chủ
Web 2.0 được xây dựng trên kiến trúc web thế hệ trước nhưng chú trọng hơn đến phần mềm làm việc ở "hậu trường". Cơ chế cung cấp nội dung chỉ khác phương thức cấp phát nội dung động (của Web 1.0) về danh nghĩa, tuy nhiên dịch vụ web yêu cầu tiến trình làm việc và dữ liệu chặt chẽ hơn.
Các giải pháp phát triển theo hướng Web 2.0 hiện nay có thể phân làm 2 loại: hoặc xây dựng hầu hết tính năng trên một nền tảng máy chủ duy nhất; hoặc xây dựng ứng dụng "gắn thêm" cho máy chủ web, có sử dụng giao tiếp API.
Hiện trạng phổ biến của các website thế hệ 1.0 đó là chứa nhiều thứ phiền toái và làm việc chậm chạp, dường như luôn muốn gửi đến người dùng thông điệp: đây là website của chúng tôi chứ không phải của bạn. Căn nguyên của vấn đề có thể là do chủ sở hữu các website cảm thấy họ "cho không" cái gì đó. Đôi khi chủ sở hữu website cho rằng càng làm khó người dùng thì họ càng được lợi! Có thể lấy ví dụ như những trang web cho bạn tìm kiếm và xem 1 phần nội dung tài liệu, nhưng khi muốn xem toàn bộ hoặc tải xuống thì lại nhận được yêu cầu đăng ký và trả phí.
Dĩ nhiên, với sự phổ biến của các phần mềm máy chủ, trong đó có cả phần mềm miễn phí như Apache thì người dùng có thể đưa lên web bất kỳ thông tin gì. Tuy nhiên có nhiều yếu tố cản trở: kỹ năng tạo website, hạn chế của nhà cung cấp dịch vụ Internet, việc bảo mật và kiểm duyệt...
Về cơ bản, Web 2.0 trao quyền nhiều hơn cho người dùng và tạo nên môi trường liên kết chặt chẽ các cá nhân với nhau. Giờ đây có nhiều ví dụ cho thấy cộng đồng người dùng có thể đóng góp thông tin giá trị khi họ có phương tiện thích hợp. Wikipedia có lẽ là ví dụ nổi tiếng nhất. Tuy có nhiều học giả không đánh giá cao Wikipedia, nhưng họ quên một điều quan trọng: nó đủ tốt, miễn phí và nhiều người có thể đọc. Ngoài ra còn có những ví dụ khác như các site Reddit và Digg để cho người dùng quyết định thông tin gì là quan trọng, hay del.icio.us cho phép mọi người chia sẻ những địa chỉ web hay.
Web 2.0 cho phép mọi người có thể đưa lên mạng bất cứ thông tin gì. Với số lượng người tham gia rất lớn, đến mức độ nào đó, qua quá trình sàng lọc, thông tin sẽ trở nên vô cùng giá trị. Ở đây có sự tương đồng với thuyết chọn lọc tự nhiên.